1/5/13

BASAM LẠI NÓI SÀM VỀ CUỘC CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC


LâmTrực@
BASAM LẠI NÓI SÀM VỀ CUỘC CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã thằng lợi hoàn toàn sau chiến thắng Mùa Xuân năm 1975.  Cái mốc lịch sử 30 tháng 4 năm 1975 đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại của dân tộc, lần đầu tiên sau 117 năm (kể từ 1858 đến 1975) đất nước hoàn toàn sạch bóng quân xâm lược. Cuộc chiến giải phóng dân tộc từ tay xâm lược Mỹ đã thắng lợi hoàn toàn, đất nước được độc lập. Lịch sử dân tộc Việt Nam anh hùng đắt bắt đầu sang một trang mới. Sau 38 năm nhìn lại, chúng ta vẫn tự hào đã làm nên kì tích kháng chiến, và đó là cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc.

Tiếc thay, vẫn còn có nhiều kẻ muốn xuyên tạc, bóp méo lịch sử cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, trong đó có ngày chiến thắng 30/4/1975. Có kẻ còn nói: “Người Mỹ không thua vì tổng số thương vong, người Mỹ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương”; hay: “Cuộc chiến tranh này với mục tiêu ngăn chặn làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á đã thành công nên không thể nói là Chính phủ Mỹ thất bại”(!). Và mới đây, ngay ngày hôm qua, trên FB của mình, Nguyễn Hữu Vinh, chủ blog Basam đã có một đoạn văn với cái tít "gọi tên gì cho cuộc chiến". Điều đáng nói là Nguyễn Hữu Vinh là một người am hiểu về lịch sử dân tộc, đã và đang tiếp tục viết thứ gọi là "Việt Sử Ký" nhưng lại nói những điều phỉ báng và xuyên tạc lịch sử dân tộc. 

Ông Nguyễn Hữu Vinh viết: "Không thể gọi đây là cuộc chiến "Chống ngoại xâm", "Giải phóng miền Nam" hay chiến tranh "Chống Mỹ cứu nước"... bởi vì trước khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, đã xảy ra chiến tranh ở 2 miền Nam - Bắc và sau khi Mỹ rút quân thì Nam - Bắc vẫn tiếp tục đánh nhau (vả lại, khi Mỹ đưa quân vào miền Nam thì ở miền Bắc cũng đã có sự hiện diện của của quân Liên Xô và Trung Quốc).".

Tôi không tin là ông Nguyễn Hữu Vinh không hiểu lịch sử, không thuộc lịch sử dân tộc, tôi cũng không bàn lý do vì sao ông lại viết như vậy, với hiểu biết nông cạn của mình, tôi chỉ xin nói lại vài điều.

Thứ nhất, ông Vinh đặt vấn đề tên gọi của cuộc chiến. Xin lỗi ông Vinh là cuộc chiến đó đã có cái tên do dân tộc Việt Nam đặt, cái tên ấy đã đi vào lịch sử, vào giáo khoa, vào văn hóa và vào tâm thức của người Việt Nam, đó là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Thiết nghĩ, ông Nguyễn Hữu Vinh không có tư cách gì để đặt tên cho cuộc chiến thần thánh của dân tộc. Cuộc chiến trước 1975 là cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ của dân tộc Việt Nam. Điều này mãi mãi được khắc ghi vào lịch sử và tâm tư tình cảm của dân tộc. Kẻ nào cố tình xuyên tạc bóp méo sự kiện lịch sử này là không còn chỗ đứng nào nữa, không còn tư cách nào nữa, và tất yếu sẽ bị lịch sử gạt qua ngoài lề.

Nếu chưa hiểu về bản chất cuộc chiến thì vào Box Đại Sảnh của Diễn đàn Lịch sử Việt Nam để đọc các công trình nghiên cứu hàn lâm, các khảo cứu tài liệu của các học giả trong ngoài nước, xem các học giả nước ngoài, kể cả các học giả Mỹ nói gì về cuộc chiến, xem các "tổng thống", "lãnh đạo", tướng tá sĩ quan ngụy nói gì về cuộc chiến.

Xin trích lại một vài ý kiến về cuộc chiến mà ông Nguyễn Hữu Vinh đang âm mưu đặt lại tên và ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tiến sĩ Trần Chung Ngọc, là một cựu sĩ quan nguỵ từng là giảng viên Trường sĩ quan Trừ bị Nam Định: "Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể là họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào. Tôi ở phe thua trận, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng như ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi một niềm hãnh diện được làm một người Việt Nam, một người Việt Nam không "Quốc gia" không Cộng sản, không Nam không Bắc, một người Việt Nam không từ bỏ gốc gác tổ tiên, không từ bỏ lịch sử khi vinh khi nhục của quốc gia, và lẽ dĩ nhiên rất hãnh diện với lịch sử chống xâm lăng của dân tộc. Khía cạnh tích cực nhất của ngày 30/4/75 là trên đất nước không còn cảnh bom đạn, cảnh đồng bào bắn giết nhau, và nhất là đất nước đã vắng bóng quân xâm lược."

Một người chuyên bình luận sử trên Diễn đàn Lịch sử Việt Nam có nickname Gươm Vàng đã viết thế này: "Rất nhiều cựu tướng tá sĩ quan Sài Gòn đã vui mừng nói về ngày 30/4 như là 1 ngày đại thắng của dân tộc, như ông Nguyễn Hữu Hạnh, Trần Chung Ngọc, Trần Văn Thông. Các trang web của các cựu sĩ quan SG như dongduongthoibao.net của của ông Trần Thông, sachhiem.net của ông Nguyễn Mạnh Quang, kbchn.net của ông Nguyễn Phương Hùng cũng đăng về NGÀY TOÀN THẮNG 30/4".

Ngay cả siêu phản động như Bùi Tín mà còn biết nói câu "Ngày 30/4 không có miền Bắc thắng hay miền Nam bại, chỉ có đế quốc Mỹ là kẻ bại trận và nhân dân Việt Nam là người chiến thắng", và hắn nói câu này bên Paris, Pháp sau khi hắn đã phản bội chứ không phải hồi hắn còn ở VN, chính vì câu này nên hắn mới bị bọn ba que chửi.

Một bạn trẻ viết trên diễn đàn QSVN thế này: "30-4 năm nay là một ngày đặc biệt trong họ hàng nhà mình. Hai người lính ở hai đầu chiến tuyến ngày xưa nay đã là sui gia. Dù ai có nói gì thì với tôi ngày 30 tháng 4 là một ngày đáng tự hào và hạnh phúc của dân tộc. Lịch sử là lịch sử, qua thời gian người ta có thể có những cách nhìn khác về lịch sử nhưng bản chất của lịch sử thì nó vẫn như vậy". 

Từ phía bên kia, trong cuốn hồi ký với tiêu đề “Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”, Robert S.McNamara, từng là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thời kỳ chiến tranh Việt Nam, không chỉ thừa nhận thất bại của Mỹ, coi đó là “một thảm kịch”, mà còn thừa nhận đây là cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ gây ra do những sai lầm về chính trị của nhiều đời tổng thống.

Nguyễn Hữu Vinh cho rằng, "Ngày 31-3-1973 là ngày mà những người lính Mỹ, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự Mỹ cuối cùng rút khỏi VN. Nhưng từ ngày 31-3-1973 đến 30-4-1975, chiến tranh vẫn còn hiện diện trên mảnh đất Việt Nam. Gọi như các báo trong nước "38 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng", vậy miền Nam "hoàn toàn giải phóng" khỏi tay ai? Không thể "giải phóng" khỏi Mỹ vì lúc đó Mỹ đâu có mặt ở miền Nam mà "giải phóng"? 

Với lập luận này của Nguyễn Hữu Vinh, LâmTrực@ không dài dòng giải thích vì lịch sử Việt Nam đã nói rất rõ, cũng chỉ xin trích lại ý kiến của Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chế độ Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong sách "Từ tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập" đã đưa ra nhiều thông tin gián tiếp cho thấy sự sống chết của ngụy quyền Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc vào sự nuôi dưỡng, cưu mang của chính phủ Hoa Kỳ, cụ thể bản báo cáo mà Nguyễn Văn Thiệu đã đọc: 
"Nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có thể giữ được các vùng đông dân cư tại bốn vùng chiến thuật.

Nếu mức viện trợ quân sự xuống 1,1 tỷ USD thì có thể không giữ được Quân khu I.
Nếu mức Viện trợ quân sự còn 900 triệu USD thì khó giữ được Quân khu I, Quân khu II.
Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 750 triệu USD thì chỉ có thể phòng thủ một vài khu vực.
Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 600 triệu USD thì chỉ còn có thể giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long."
(Đó chỉ là viện trợ quân sự, chưa tính viện trợ kinh tế vốn không có nhiều cắt giảm).
Cũng theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, có lúc Nguyễn Văn Thiệu đã cay đắng "than thân trách phận" với một dân biểu Mỹ rằng: "Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài gòn đi Tokyo." Sau đó, ông Thiệu phái ông Nguyễn Tiến Hưng đi xin thêm tiền và sau này thuật lại trong quyển sách trên, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã ví việc này với "cái nhục của kẻ đi cầu xin".

Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và Bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.316 đã viết: "Ngày 3-4-1973, tại San Clemente thuộc bang Caliphoocnia (Mỹ) diễn ra cuộc hội đàm giữa Tổng thống Mỹ Níchxơn và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu. Hai bên đã ra thông cáo chung, trong đó, phía Mỹ tái khẳng định cam kết sẽ tiếp tục viện trợ cho chính quyền Sài Gòn và “Mỹ sẽ trả đũa không thương tiếc mọi vi phạm lệnh ngừng bắn”. Trên thực tế, thay vì phải phá hủy các căn cứ quân sự của quân đội Mỹ trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam như đã quy định tại Điều 6 của Hiệp định Pari, thì ngược lại, phía Mỹ đã chuyển giao toàn bộ những cơ sở này cho chính quyền và quân đội Sài Gòn. Đối với số lượng máy bay chiến đấu, quân đội Mỹ không chuyển về nước mà phân tán sang các căn cứ quân sự ở Thái Lan nhằm sẵn sàng chi viện cho quân đội Sài Gòn và can thiệp vào miền Nam Việt Nam khi cần thiết. Từ cuối năm 1972 đến đầu năm 1973, phía Mỹ đã khẩn trương chuyển gấp cho quân đội Sài Gòn tổng cộng 700 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép, bổ sung dự trữ vật tư chiến tranh là 2 triệu tấn và những viện trợ khác trị giá lên tới 2.670 triệu đô la năm 1973". Với cứ liệu này, tôi chắc ông Nguyễn Hữu Vinh đã hiểu, vì sao ta gọi là giải phóng dân tộc và miền Nam được giải phóng từ tay ai. 

Ngày 27-3-1973, những người lính Mỹ cuối cùng bắt đầu rút khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 29-3-1973, Bộ Tham mưu quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ. Tướng Uâyen, Tổng Tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam cùng với 2.510 lính Mỹ cuối cùng lặng lẽ ra sân bay Tân Sơn Nhất rời khỏi Việt Nam dưới sự kiểm soát và giám sát của Ủy ban quốc tế và các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban liên hiệp quân sự bốn bên. Cùng ngày, những người lính Nam Triều Tiên và Philíppin cũng lên đường rút về nước. Tuy nhiên: “Thay vì triệt thoái các căn cứ của mình, Mỹ đã trao lại cho Nam Việt Nam trước khi Hiệp định Pari có hiệu lực. Hàng tiếp tế được dán nhãn phi quân sự và được coi là đủ điều kiện để chuyển giao. Đoàn cố vấn quân sự được thay thế bằng tổ chức dân sự 9.000 người, trong đó, rất nhiều người được cho giải ngũ và đưa vào phục vụ chính quyền Việt Nam”. Điểm này được coi là sự trảo trở của Mỹ và khẳng định Mỹ vẫn tiếp tục cuộc chiến ở Việt Nam. Sự cuốn gói của họ chỉ mang tính chất tượng trưng để lòe bịp dư luận mà thực chất họ vẫn chỉ đạo, cung cấp mọi điều kiện cho chính quyền Thiệu, ấy là chưa kể đến việc chính quyền Mỹ tiếp tục xúc tiến mạnh mẽ con bài ngoại giao thân thiện với cả Liên Xô và Trung Quốc, khoét sâu vào mâu thuẫn giữa hai cường quốc này để nhằm hạn chế tới mức thấp nhất sự ủng họ và giúp đỡ của hai nước đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Các hoạt động ngoại giao xảo quyệt của phía Mỹ đã tạo ra những khó khăn và ảnh hưởng nhất định tới cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trên thực tế, từ năm 1969 trở đi, Liên Xô đã từng bước thực hiện cắt giảm viện trợ cho Việt Nam, đặc biệt là về viện trợ quân sự; Việt Nam đã không nhận thêm được quả tên lửa nào. Cho tới những năm 1974 -1975 thì nguồn viện trợ của hai nước Liên Xô, Trung Quốc dành cho Việt Nam gần như không đáng kể. Nếu như năm 1973, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam trị giá 248 triệu rúp thì sang năm 1974 đã tụt giảm còn 98 triệu rúp và năm 1975 chỉ còn 76 triệu rúp. Tương tự, viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam cũng không ngừng giảm, năm 1973 trị giá 1.415 triệu tê nhưng năm 1974 chỉ còn 452 triệu tệ và năm 1975 là 196 triệu tệ. Tính riêng về vũ khí, trang bị năm 1973, viện trợ hai nước đã giảm 60% so với năm 1972, năm 1974 giảm còn 34% và năm 1975 lại tiếp tục giảm chỉ bằng 11% so với năm 1972. Phía Mỹ đã không tính hết được rằng, về đường lối đối nội và đối ngoại của Việt Nam những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tỏ ra tương đối độc lập: tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của đông đảo nhân dân và các quốc gia trên thế giới; không bị chi phối lớn bởi Liên Xô và Trung Quốc. Mặt khác, lúc này, toàn thể dân tộc Việt Nam đang nỗ lực dồn sức người sức của thực hiện quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trở lại vấn đề, tôi thấy gọi là chiến thắng hay giải phóng miền Nam là hoàn toàn đúng, ông Vinh có thể thấy vào thời điểm đó miền Nam nước ta là cả một bàn cờ không chỉ có 2 màu quân đen trắng, còn có người Pháp và đồng minh danh nghĩa Trung Quốc cũng tham gia với những toan tính riêng. Do đó ngoài việc xóa sổ chính quyền Sài Gòn, sự kiện 30/4 còn dẹp hết tất cả những màn lén lút của nhưng quốc gia đó. Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt Nam thực sự tự chủ trên mảnh đất hình chữ S.

Công bằng mà nói, tôi thấy giáo sư Trần Chung Ngọc, giáo sư Trần Mạnh Quang chẳng phải là những người lính Ngụy đáng khâm phục hay sao. Họ bại trận, họ một thời lầm lỗi, nhưng giờ họ đã nhận ra, thức tỉnh và trở về giúp đỡ quê hương dưới nhiều hình thức, từ vật chất đến ngòi bút chống lại những âm mưu phá hoại đất nước. Họ có thể không cùng chung lý tưởng Cộng Sản, họ cũng thừa biết Việt Nam hiện giờ còn nhiều yếu kém và tệ nạn, nhất là tệ nạn tham nhũng, nhưng họ luôn chung một dòng máu Việt Nam, và luôn chung một mong muốn xây dựng đất nước. Họ đã vứt cái "hận thù" và cái "mặc cảm bại trận" ấy đi từ lầu rồi. Ông Nguyễn Hữu Vinh có nên học hỏi những tấm gương người Việt đó không?

Thanh Hóa, ngày 1 tháng 5 năm 2013

Đây Ba Sàm lại viết như thế này đây :

BASAM LẠI NÓI SÀM VỀ CUỘC CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC


Theo Blog Tre Làng

BÌNH LUẬN FACEBOOK


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Copyright © 2012 The Best Template Blogger All Right Reserved